Tôi biết đó là một sự kết hợp khó có thể xảy ra, nhưng tôi có một người bạn là một Nhân chứng Giê-hô-va. Một ngày nọ, sau khi vượt qua được sự bối rối của cả hai bên, anh ấy hỏi liệu anh ấy có thể cố gắng thuyết phục tôi để Chúa Giêsu bước vào cuộc đời mình không. Tôi đã hứa với anh ấy một phiên điều trần công bằng. Một số điều anh ấy nói có lý, nhưng câu chuyện lại không như ý tôi khi anh ấy tuyên bố rằng vào thời Kinh thánh "con người có đạo đức hơn rất nhiều so với ngày nay". Tôi lập luận rằng một nửa Cựu Ước dường như là bản ghi chép về nạn diệt chủng được thần linh soi dẫn, khi dân Chúa tìm cách tiêu diệt các bộ tộc khác mà họ gặp phải. “À vâng,” bạn tôi nói, “nhưng có ít chuyện gian dâm hơn nhiều.”
Đây là thời điểm mà tôi hiểu rằng những người cùng khu phố có thể có những quan niệm rất khác nhau về đạo đức. Đó là một chủ đề mà nhà tâm lý học Jonathan Haidt mở rộng một cách hấp dẫn và thuyết phục trong cuốn sách của ông Tâm chính trực. Và đó là chủ đề mà ông đã vấp phải, một cách ngu ngốc và tai hại, khi tìm cách áp dụng những phát hiện của mình vào chính trị, như anh ấy đã làm trên tờ Guardian tuần trước, và như những gì ông ấy đã làm để đạt được hiệu quả to lớn trong Đảng Dân chủ.
Dựa trên vô số bằng chứng thực nghiệm, Haidt lập luận rằng chúng ta có xu hướng đưa ra các quyết định mang tính đạo đức dựa trên cơ sở trực giác hơn là lý luận chiến lược. Sau đó, chúng ta sử dụng khả năng suy luận của mình để tìm ra lời biện minh cho những quyết định mà chúng ta đã đưa ra. Ông nói: “Suy nghĩ đạo đức của chúng ta giống như một chính trị gia đang tìm kiếm phiếu bầu hơn là một nhà khoa học đang tìm kiếm sự thật”.
Trực giác của chúng ta được định hình và giúp gắn kết các nhóm hoặc nhóm mà chúng ta thuộc về. Haidt nói, các quy tắc đạo đức của những người tiến bộ ở phương Tây được xây dựng chỉ dựa trên ba nền tảng: theo đuổi sự quan tâm hơn là làm hại, tự do hơn là áp bức, và công bằng hơn là gian lận.
Ngược lại, các chính trị gia bảo thủ có "nhiều cách khác nhau để kết nối với cử tri", vì câu chuyện đạo đức của họ được xây dựng trên những nền tảng này cộng thêm ba nền tảng nữa: lòng trung thành/sự phản bội, quyền lực/lật đổ và sự thiêng liêng/suy thoái. Ông nói với chúng tôi rằng “Hầu hết người Mỹ không muốn sống ở một quốc gia chủ yếu dựa vào sự quan tâm”.
Thay vì bỏ phiếu về các vấn đề kinh tế, tầng lớp lao động đã "bỏ phiếu vì lợi ích đạo đức của họ". Ông lập luận rằng "khi mọi người lo sợ sự sụp đổ của xã hội, họ muốn trật tự và sự vĩ đại của quốc gia chứ không phải một chính phủ nuôi dưỡng hơn". Ông nói, điều này giúp giải thích tại sao "những người thuộc tầng lớp lao động lại bỏ phiếu bảo thủ, giống như hầu hết mọi người ở Mỹ".
Phân tích của Haidt đã được cả hai bờ Đại Tây Dương đón nhận nhiệt tình. Nhưng những người ngưỡng mộ anh ấy dường như đã bỏ lỡ điều gì đó. Mặc dù những phát hiện tâm lý mà ông trình bày đã được chứng thực rõ ràng và được tham khảo kỹ lưỡng, nhưng ông không đưa ra một chút bằng chứng nào để hỗ trợ cho các quan điểm chính trị của mình, cả trong bài báo hay trong cuốn sách của mình. Tuyên bố của ông là không có nguồn gốc, không có căn cứ và rõ ràng là sai.
As Larry Bartels, giáo sư khoa học chính trị tại Vanderbilt, Nashville, chỉ ra, quan điểm chính trị của cử tri thuộc tầng lớp lao động da trắng ở Mỹ “hầu như không thay đổi trong 30 năm qua”. Trên thực tế, số phiếu bầu cho Đảng Dân chủ của những người có thu nhập thấp đã tăng lên. Các quyết định chính trị của tầng lớp này vẫn được định hình chủ yếu bởi kinh tế. Về cái mà Haidt gọi là giá trị "đạo đức", "không có bằng chứng nào về bất kỳ sự thay đổi nào" trong nhóm này. Chỉ trong số những cử tri giàu có hơn, đảng Dân chủ mới mất đi sự ủng hộ. "Tình trạng kinh tế đã trở nên quan trọng hơn chứ không kém phần quan trọng trong việc cấu trúc hành vi bầu cử tổng thống."
Vấn đề thực sự chắc chắn là tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu. Ở Mỹ, tỷ lệ này đã ở mức thấp trong một thời gian dài: từ 50% đến 60% cho các cuộc bầu cử tổng thống và 30% đến 45% cho các nghị sĩ giữa nhiệm kỳ kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở Anh tỷ lệ này đã giảm đáng kể, từ 84% năm 1950 xuống còn 65% năm 2010. Một phân tích của Viện nghiên cứu chính sách công cho thấy sự sụp đổ xảy ra chủ yếu ở những người trẻ và nghèo hơn. "Những người lớn tuổi và những người giàu hơn hoặc có trình độ học vấn cao hơn… hiện có nhiều ảnh hưởng hơn trong thùng phiếu".
Viện cho biết lý do chính là do "đặc điểm 'cổ phần thấp' của các cuộc bầu cử gần đây": các đảng lớn "đã chiến đấu trên các nền tảng khá giống nhau". Sự suy giảm lớn nhất trong lịch sử chính trị gần đây – từ năm 1997 đến năm 2001 – càng làm tăng thêm sức nặng cho cuộc tranh luận này. Năm 1997, giới trẻ và người nghèo tin rằng họ phải đối mặt với một sự lựa chọn thực sự về chính trị và kinh tế. Đến năm 2001, Blair đã đẩy Đảng Lao động sang cánh hữu đến mức khó có thể lựa chọn.
Nếu Haidt và những người ngưỡng mộ ông đúng, thì chiến lược đúng đắn sẽ là Đảng Lao động, Đảng Dân chủ và các đảng từng tiến bộ khác sẽ chuyển sang cánh hữu nhiều hơn, thống nhất quyết liệt hơn nữa, và - bằng cách tìm cách thỏa mãn sự khao khát rõ ràng về lòng trung thành, quyền lực và sự tôn nghiêm - gia nhập bộ tộc đối nghịch. Nhưng nếu vấn đề thực sự không phải là các cử tri thuộc tầng lớp lao động đã thay đổi sở thích bỏ phiếu của họ mà là họ hoàn toàn không bỏ phiếu vì có quá ít phiếu bầu, thì giải pháp chính trị đúng đắn là làm điều ngược lại: chuyển sang cánh tả nhiều hơn và chuyển sang nhấn mạnh không phải "trật tự và sự vĩ đại của quốc gia" mà là sự quan tâm và công bằng kinh tế.
Những khẳng định không có căn cứ của Haidt cho thấy rằng anh ta cũng đang sử dụng lý luận để biện minh cho trực giác của mình. Tôi chắc chắn rằng anh ấy đúng khi cho rằng tất cả chúng ta đều có xu hướng này. Nhưng chúng ta có thể mong đợi anh ấy, trong số tất cả mọi người, cố gắng suy nghĩ như “một nhà khoa học đang tìm kiếm sự thật”.
ZNetwork được tài trợ hoàn toàn thông qua sự hào phóng của độc giả.
Đóng góp