Nguồn: Phố Wall quốc tế
Như thể cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch gây ra vẫn chưa đủ, thế giới vừa bước sang một giai đoạn hiếu chiến mới và nghiêm trọng mà vẫn có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng thậm chí còn lớn hơn. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng xấu đi này là cuộc xâm lược bất hợp pháp của Putin vào Ukraine, nhưng cũng đáng trách là việc Mỹ khét tiếng phủ nhận, trong ba thập kỷ qua, những lo ngại của Nga về an ninh của chính mình. Chúng ta đang sống trong một thời điểm cực kỳ căng thẳng, hậu quả của nó đang được thể hiện rõ ràng bởi sự tập trung mạnh mẽ của giới truyền thông vào cuộc khủng hoảng Ukraine, đặc biệt là dọc theo trục Bắc Đại Tây Dương, bao gồm Australia, Nhật Bản và Brazil.
Ở những nơi khác trên thế giới, cuộc khủng hoảng Ukraine có xu hướng được đặt vào bối cảnh, bởi vì nó liên quan đến hình thức xâm lược vũ trang (xâm lược, đánh bom, giết hại thường dân vô tội) mà những khu vực đó từ lâu đã là nạn nhân, hoặc bởi vì các khu vực được đề cập hiện đang phải đối mặt với những vấn đề mà họ cho là nghiêm trọng hơn hoặc ít nhất là cấp bách hơn (ví dụ như nạn đói, thiếu nước và vắc xin, bạo lực thánh chiến). Nếu người dân ở những khu vực này coi cuộc khủng hoảng Ukraina có liên quan đáng kể thì đó là do những vấn đề vô hình hoặc vô nghĩa khi nhìn từ quan điểm của dư luận ở trục Bắc Đại Tây Dương. Chẳng hạn, Liên minh châu Phi vừa đưa ra tuyên bố mạnh mẽ phản đối hành vi “phân biệt chủng tộc gây sốc” của chính quyền ở biên giới Ukraine-Ba Lan. Họ buộc tội họ phân biệt đối xử với công dân châu Phi sống ở Ukraine, những người đã bị đối xử bất bình đẳng vì màu da của họ khi họ cố gắng chạy trốn chiến tranh. Vào ngày 2 tháng 2022 năm 17, các thành viên của khối châu Phi chiếm 35 – tức là XNUMX/XNUMX số nước châu Phi – trong số XNUMX quốc gia bỏ phiếu trắng về nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc lên án Nga xâm lược Ukraine.
Đổi lại, sự phân cực của các ý kiến trong trục Bắc-Đại Tây Dương đến mức không thể đưa sự phức tạp vào cuộc tranh luận được nữa. Thay vào đó, những gì chúng ta có là một phản ứng tức thời rất giống với tình huống mà chúng ta thấy mình trong giai đoạn ngay sau ngày 9/11. Bất kỳ quan điểm nào tìm cách bối cảnh hóa hoặc đặt vấn đề đều tự động bị coi là phản quốc. Tất nhiên, Putin có những người ủng hộ mình. Một số thành phần cánh tả (ví dụ ở Brazil và Bồ Đào Nha) đã từ chối lên án cuộc xâm lược Ukraine. Phải chăng điều này là do họ coi Putin là người thừa kế hợp pháp của Liên Xô? Họ không biết rằng Putin là một nhà lãnh đạo bảo thủ có quan điểm tương tự như những người cực hữu châu Âu (ngoại trừ người Ukraine), một người chỉ trích Lenin, người có quan hệ tốt nhất với Marine Le Pen và Donald Trump? Trên thực tế, Đảng Cộng sản Nga chỉ dành cho Putin sự hỗ trợ vừa phải, và một số nhà lãnh đạo của đảng này đã không ngần ngại rời xa ông.
Trong một cuộc phỏng vấn với BBC vào ngày 28 tháng XNUMX, Mikhail Matveev, một nhà lập pháp Duma Quốc gia của Đảng Cộng sản, đã nói như sau: “Tôi nghĩ chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội công nhận các nước cộng hòa [Donetsk và Luhansk] và cung cấp cho họ một nền cộng hòa mới, tình trạng an toàn hơn, như trường hợp của Abkhazia và Nam Ossetia. Đảng chiến tranh dường như đã quyết định rằng việc xây dựng một kiểu quan hệ mới giữa giới lãnh đạo Ukraine và các nước cộng hòa đó trên cơ sở mới là điều thậm chí không đáng để thử, và rằng thực tế là quân đội Nga đã được triển khai để làm lá chắn sẽ đảm bảo. rằng các thành phố Donbas không bị tấn công. Họ [tức là chính phủ Putin] thậm chí còn không thử. Theo quan điểm của tôi, lối logic hung hãn này chỉ có thể khiến tình tiết trở nên trầm trọng hơn. Càng có nhiều thương vong cho cả hai bên thì việc ngăn chặn xung đột càng trở nên khó khăn hơn… Khả năng giải quyết vấn đề một cách hòa bình vẫn chưa hết, và đó là một sai lầm nghiêm trọng của giới lãnh đạo Nga”.1
Có thể suy nghĩ trong hoàn cảnh như vậy không? Liệu có thể coi cuộc khủng hoảng này như một cuộc khủng hoảng đã có lịch sử lâu dài, bao gồm cả nguyên nhân gần và gốc rễ của nó, đồng thời mở rộng số lượng và danh tính của cả nạn nhân lẫn kẻ xâm lược? Đây có phải là một bài tập hữu ích khi những người vô tội đang chết? Tại sao không hành động thay vì suy nghĩ? Tại sao không hướng năng lượng phẫn nộ vào các cuộc biểu tình lớn chống tội phạm xâm lược Ukraine trên toàn thế giới? Điều này khác biệt như thế nào so với năm 2003, khi 15 triệu công dân trên khắp thế giới xuống đường biểu tình phản đối cuộc xâm lược tội phạm vào Iraq khiến hơn một triệu người thiệt mạng? Nếu hồi đó những cuộc biểu tình đó không có tác động rõ rệt thì tại sao bây giờ lại khác? Chúng ta sẽ từ bỏ việc đấu tranh chống chiến tranh, thời kỳ hay có những cuộc chiến tranh công bằng và bất công? Và trong trường hợp sau, tiêu chí là gì và ai là người đặt ra chúng? Một điều chắc chắn là một cuộc xâm lược bất hợp pháp không biện minh cho một cuộc xâm lược khác.
Nhiều cuộc xâm lược và đánh bom bất hợp pháp do Mỹ thực hiện gần như ngay từ khi thành lập không thể được sử dụng để biện minh cho cuộc xâm lược và các vụ đánh bom hiện đang được thực hiện ở Ukraine. Chúng ta không thể quên nỗi kinh hoàng của những quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima và Nagasaki khi chiến tranh đã thắng lợi, với mục đích duy nhất là trừng phạt kẻ thù đã bại trận và khẳng định quyền lực toàn cầu bằng cái giá phải trả là rất nhiều máu vô tội.
Suy nghĩ lại về quá khứ trong thời điểm khủng hoảng là hình dung ra cách có thể dự đoán được hiện tại. Cuộc khủng hoảng này có thể tránh được không? Nếu Hoa Kỳ thực sự cam kết cứu thế giới vì dân chủ, liệu họ có can thiệp vào cuộc đảo chính Maidan năm 2014 chống lại Viktor Yanukovych, tổng thống được bầu cử dân chủ, người đã bị tấn công sau khi ông từ chối tiến gần hơn đến Liên minh châu Âu và chấm dứt mối quan hệ ưu đãi của đất nước với Nga? Tại sao các nhóm tân Quốc xã nổi tiếng như Tiểu đoàn Azov lại được sáp nhập vào Lực lượng Vệ binh Quốc gia Ukraine và được truyền thông phương Tây biến thành anh hùng dân tộc chủ nghĩa? Tại sao, sau khi thừa nhận vào năm 2018 rằng Ukraine có vấn đề cực hữu, Hội đồng Đại Tây Dương – tổ chức tư vấn không chính thức của NATO – lại xuất bản một bài báo vào ngày 24 tháng 2020 năm XNUMX với tựa đề Tại sao Azov không nên bị coi là tổ chức khủng bố nước ngoài? Sau sự can thiệp của NATO vào Serbia (1999), Afghanistan (2001), Iraq (2004) và Libya (2011), liệu NATO có còn được coi là một tổ chức phòng thủ? Nếu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, an ninh quốc tế được coi là không thể chia cắt, thì tại sao Mỹ lại từ chối thừa nhận và thảo luận về những lo ngại của Nga trong ba mươi năm qua? Nếu một cuộc chiến tranh nổ ra ở khu vực Donbas kể từ năm 2015, khiến khoảng 10,000 đến 14,000 người thiệt mạng, thì Liên Hợp Quốc lấy đâu ra để ngăn chặn các hành động thù địch? Tại sao Liên hợp quốc không đóng vai trò tích cực hơn trong việc thực thi Hiệp định Minsk?
Suy nghĩ lại về quá khứ có lẽ không còn phù hợp vào thời điểm cấp bách như thế này. Điều chúng ta có lẽ cần làm là xem xét tương lai của mình. Một Ukraine bị tàn phá sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng có ở châu Âu. Còn công dân Nga thì sao? Không còn nghi ngờ gì nữa, họ cũng phản đối chiến tranh như công dân các nước khác. Một nhóm các nhà khoa học và nhà báo khoa học Nga vừa đưa ra một tuyên bố điều đó cực kỳ quan trọng đối với cuộc xâm lược Ukraine. Có lúc tuyên bố viết: “Không có lời biện minh hợp lý nào cho cuộc chiến này. Rõ ràng, Ukraine không gây ra mối đe dọa nào đối với an ninh của Nga. Những nỗ lực lợi dụng tình hình ở Donbas làm cái cớ để phát động một chiến dịch quân sự là hoàn toàn giả tạo. Cuộc chiến chống Ukraine là bất công và vô nghĩa. (…) Ukraine đã và vẫn là một quốc gia gần gũi với chúng ta. Nhiều người trong chúng ta có người thân, bạn bè và đồng nghiệp sống ở Ukraine. Cha ông, ông nội và ông cố của chúng ta đã cùng nhau chiến đấu chống lại chủ nghĩa Quốc xã, và gây ra một cuộc chiến tranh vì tham vọng địa chính trị của giới lãnh đạo Liên bang Nga, được thúc đẩy bởi những tưởng tượng lịch sử đáng ngờ, là một sự phản bội hoài nghi đối với ký ức của họ.”
Vào thời điểm này, thật là tàn nhẫn khi cố đoán xem ai sẽ là người chiến thắng trong tất cả những điều này. Một số dường như là hiển nhiên. Giống như trường hợp cuối Thế chiến thứ hai, cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Âu báo hiệu sự bùng nổ của nền kinh tế Mỹ. Không còn nghi ngờ gì nữa, trong số những ngành sắp được hưởng lợi nhiều nhất là ngành công nghiệp quân sự của nhiều quốc gia và đặc biệt là của Mỹ, giờ đây cuộc phiêu lưu bi thảm của Putin đã đặt vào tay họ một lĩnh vực quân sự hóa mạnh mẽ hoàn toàn mới. Tương tự như vậy, các tân bảo thủ của Mỹ, những người chiếm ưu thế trong chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ vụ 9/11, dường như cuối cùng đã giành được chiến thắng sau một chuỗi dài thất bại. Với sức mạnh không cân xứng mà ông phải đối mặt, sự phản kháng của Tổng thống Zelensky có lẽ xuất phát từ động lực yêu nước. Nhưng tôi sẽ không ngạc nhiên nếu chính bọn tân bảo thủ, cùng với những kẻ theo chủ nghĩa phát xít mới ở Ukraine, đang khuyên ông đừng đầu hàng, từ đó mang lại đau khổ lớn hơn cho người dân Ukraine. Họ biết rằng thời gian đang chống lại Nga và đây là cơ hội lớn để kiểm tra nó.
Về tương lai, cần phải thực hiện hai điểm. Điều đầu tiên liên quan đến hậu quả của sự sỉ nhục của Nga. Mỹ cảm thấy chưa đủ để chấm dứt Liên Xô hay xem Mikhail Gorbachev làm quảng cáo Pizza Hut trên truyền hình Nga năm 1998. Trong ba thập kỷ qua, họ đã làm bẽ mặt nước Nga. Họ đã làm điều này đặc biệt trong những năm gần đây, khi Trung Quốc đang nổi lên như đối thủ lớn của Mỹ và rõ ràng Nga sẽ là đồng minh ưa thích của Trung Quốc. Không còn nghi ngờ gì nữa rằng cuộc khủng hoảng hiện tại sẽ không làm cho Trung Quốc mạnh hơn nữa, bởi vì lợi ích đầu tiên và quan trọng nhất của Trung Quốc, với tư cách là một đế quốc đang trỗi dậy, là tự do hóa thương mại. Người Trung Quốc chắc chắn đã quen thuộc với Hugo Grotius Mare Liberum, xuất bản lần đầu năm 1609. Nhưng việc làm bẽ mặt nước Nga có thể gây ra những hậu quả khó lường, đặc biệt là đối với châu Âu. Năm 1919, Đức ký Hiệp ước Versailles, chấm dứt Thế chiến thứ nhất.
Nhà kinh tế học người Anh 35 tuổi, John Maynard Keynes, đã bước ra khỏi hội nghị hòa bình để phản đối các điều kiện trừng phạt quá mức mà Đồng minh áp đặt lên Đức. Keynes thấy trước rằng các khoản bồi thường quá mức và các điều kiện khắc nghiệt khác áp đặt lên Đức sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nước này, từ đó sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và chính trị cho châu Âu và thế giới, như đã thảo luận ở phần XNUMX. Hậu quả kinh tế của hòa bình, xuất bản năm 1919. Lời tiên tri của ông đã được ứng nghiệm. Đáng buồn thay, thế giới ngày nay thiếu một Keynes.
Điểm thứ hai cần được thực hiện liên quan đến quản trị thế giới. Sau cuộc khủng hoảng Ukraine, thế giới bị giằng xé giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ trở nên phân cực hơn bao giờ hết. Mỹ sẽ tiếp tục suy thoái lịch sử và do đó sẽ trở nên hung hăng hơn trong nỗ lực đảm bảo các vùng ảnh hưởng. Nó vừa hoàn thành cuộc chinh phục châu Âu, nhờ sự giúp đỡ của tổng thống Putin. Trong tương lai, bất kỳ khu vực nào trên thế giới, vì bất kỳ lý do gì, không mong muốn hoàn toàn đứng về phía một bên sẽ gặp khó khăn hơn nếu không làm như vậy. Sự can thiệp khét tiếng mang tên thay đổi chế độ và cho đến nay vẫn là sự can thiệp độc quyền của Hoa Kỳ vừa được Putin thử nghiệm một cách thảm hại. Trung Quốc mong đợi các đề xuất của mình đủ hấp dẫn trong bao lâu nữa để tránh phải thay đổi chế độ? Một trong những lý do khiến Mỹ gây ra sự sụp đổ của Nam Tư là vì nước này đại diện, dù chỉ là mong manh, cho sự tiếp tục của Phong trào Không liên kết ở châu Âu. Được thành lập vào năm 1961 hầu hết bởi các nước trẻ (Ấn Độ, Indonesia, Ai Cập và Ghana) vừa mới thoát khỏi chủ nghĩa thực dân châu Âu, Phong trào Không liên kết đề xuất đi theo con đường phát triển của riêng mình, một con đường trung gian giữa chủ nghĩa tư bản phương Tây và chủ nghĩa xã hội Xô Viết. Trong những thập kỷ tới, một phong trào thấm nhuần tinh thần tương tự sẽ tự khẳng định, chỉ có điều lần này con đường sẽ được định hướng giữa chủ nghĩa tư bản của các công ty đa quốc gia và chủ nghĩa tư bản Nhà nước Trung Quốc.
Ngoài ra, chúng ta sẽ chứng kiến sự xuất hiện không thể tránh khỏi của các chủ thể chính trị toàn cầu đóng vai trò là người phát ngôn cho lợi ích của các xã hội dân sự và cộng đồng có xu hướng bị lãng quên, bỏ rơi hoặc cung cấp thông tin sai lệch bởi các chính phủ ngày càng bị các lợi ích kinh tế và tài chính toàn cầu/hoàng gia bắt làm con tin. Liên Hiệp Quốc là một tổ chức của các Quốc gia, và nỗ lực của Kofi Annan nhằm mở cửa tổ chức này cho xã hội dân sự đã thất bại. Sau cuộc khủng hoảng Iraq và Ukraine, Liên hợp quốc sẽ càng bị mất uy tín hơn nữa, và sự mất uy tín sẽ càng lớn hơn nếu tổ chức này tiếp tục phục tùng các lợi ích địa chiến lược của Mỹ.
Thấy chúng ta đang sống trong tình trạng chiến tranh thường trực, dù người dân bình thường trên thế giới (trừ những người làm trong ngành quân sự hay lính đánh thuê) mong muốn được sống trong hòa bình, phải chăng đã đến lúc chúng ta phải có một tổ chức, tiếng nói toàn cầu có thể khiến chính nó được lắng nghe?
Chú ý
1 Ban tiếng Nga của BBC, Ngày 28 tháng 2022 năm XNUMX.
ZNetwork được tài trợ hoàn toàn thông qua sự hào phóng của độc giả.
Đóng góp