Vài tuần trước, với sự phô trương rầm rộ của giới truyền thông, Ủy ban James Baker-Lee Hamilton đã đệ trình lên Tổng thống George W. Bush một nghị quyết lưỡng đảng được chờ đợi từ lâu. báo cáo về cuộc chiến của Mỹ ở Iraq. Nói một cách cân bằng, báo cáo này đã cung cấp cho Bush một chiến lược giữ thể diện để rút toàn bộ lực lượng chiến đấu của Mỹ vào đầu năm 2008. Báo cáo của Baker-Hamilton ủng hộ việc tăng cường cố vấn Mỹ trong quân đội Iraq và đàm phán trực tiếp với các cường quốc trong khu vực. Iran và Syria.
Tuy nhiên, Bush gần như ngay lập tức tránh xa những đề xuất quan trọng trong báo cáo của Baker-Hamilton. Â Giờ đây, anh ta dường như đã chuẩn bị sẵn sàng để phô trương một cách trắng trợn sự khinh thường của mình đối với đa số cử tri Mỹ, những người đã thanh trừng cả Thượng viện và Hạ viện khỏi đa số đảng Cộng hòa của họ vào tháng XNUMX năm ngoái. Â Tại sao Bush lại bất chấp dư luận bằng cách theo đuổi cuộc chiến không được lòng dân này?
Câu trả lời không nằm ở nhu cầu của Mỹ trong việc “chống khủng bố Hồi giáo” mà nằm ở sự cần thiết về mặt kinh tế của Hoa Kỳ trong việc kiểm soát các thị trường quốc tế và các nguồn tài nguyên thiên nhiên có giá trị, chẳng hạn như dầu mỏ. Chiến lược kinh tế của Bush là “chủ nghĩa tự do mới” - ủng hộ việc dỡ bỏ nhà nước phúc lợi, bãi bỏ các chương trình xã hội tái phân phối cho người nghèo và xóa bỏ các quy định của chính phủ đối với các tập đoàn.
Trong một số gần đây của Bán Chạy Nhất của Báo New York Times (5/2006/XNUMX), Giáo sư Thomas B. Edsall của Trường Báo chí Sau đại học thuộc Đại học Columbia đã mô tả một cách sắc sảo quá trình phản động này của nền chính trị tân tự do ở Hoa Kỳ bằng những thuật ngữ sau: “Trong một phần tư thế kỷ, tính khí nóng nảy của Đảng Cộng hòa - nỗ lực liều lĩnh nhằm vứt bỏ mạng lưới an toàn xã hội; ủng hộ bạo lực trong việc thực thi pháp luật và quốc phòng; ủng hộ việc đánh thuế lũy thoái, nguy cơ môi trường và bãi bỏ quy định vì lợi ích kinh doanh; việc 'làm mất đạo đức' việc theo đuổi sự giàu có - đã được nhiều cử tri đánh giá là cần thiết đối với vị thế của Mỹ trên thế giới, mang lại nhiều lợi ích hơn là chi phí."
Theo Edsall, một trong những hậu quả của chương trình nghị sự chính trị và kinh tế phản động này là “cuộc chạy đua vũ trang của chính quyền Reagan” trong những năm 1980, “được cho là đã đẩy Liên Xô vào tình trạng phá sản”. Edsall lập luận rằng hậu quả thứ hai là cuộc xâm lược quân sự thảm khốc của Mỹ vào Iraq. “Trong khi gây ra sự hủy diệt cho người Iraq,” Edsall nhận xét, “Bush đã gia tăng số lượng kẻ thù của Mỹ và gây nguy hiểm cho quân đội, sức khỏe kinh tế và tầm vóc quốc tế của quốc gia này. Â Chấp nhận rủi ro mà không quản lý nó, Bush liên tục thất bại một cách không tiếc nuối trong việc đánh giá chính xác hậu quả của hành động của mình.
Điều quan trọng trong phân tích của Edsall là ông không giải thích cuộc xâm lược Iraq năm 2003 của Mỹ và sự chiếm đóng quân sự hiện tại là một “sai lầm” chính trị hay một “sai lầm trong phán đoán”. Đúng hơn, ông đặt lý do căn bản cho cái gọi là “cuộc chiến chống khủng bố” trong bối cảnh chính trị tân tự do trong nước của Hoa Kỳ. “Vấn đề ở Iraq không phải là một sai lầm,” Edsall nhận xét. Â “Nó bắt nguồn từ các nguyên tắc cốt lõi của đảng [Đảng Cộng hòa], hiển nhiên như nhau trên mặt trận trong nước.”
Câu hỏi lớn hơn về kinh tế chính trị, chưa được Edsall và hầu hết các nhà phân tích khám phá, là mối liên hệ giữa chủ nghĩa quân phiệt Mỹ ở nước ngoài, chủ nghĩa tân tự do và các xu hướng trong nền kinh tế toàn cầu. Â Là nhà kinh tế Paul Sweezy, Harry Magdoffvà những người khác đã lưu ý từ nhiều thập kỷ trước, xu hướng kinh tế chung của chủ nghĩa tư bản trưởng thành là hướng tới trì trệ. Trong nhiều thập kỷ ở Hoa Kỳ và Tây Âu, đầu tư vào nền kinh tế sản xuất đã giảm liên tục, dẫn đến năng lực công nghiệp suy giảm và tốc độ tăng trưởng trong tương lai thấp hơn.
Kể từ những năm 1970, các tập đoàn và tổ chức tài chính của Mỹ chủ yếu dựa vào nợ để mở rộng tăng trưởng kinh tế trong nước. Đến năm 1985, tổng nợ của Hoa Kỳ - bao gồm các khoản nợ của tất cả các hộ gia đình, chính phủ (liên bang, tiểu bang và địa phương), cũng như tất cả các doanh nghiệp tài chính và phi tài chính - đã đạt gấp đôi tổng sản phẩm quốc nội hàng năm của Hoa Kỳ. Đến năm 2005, tổng số nợ của Mỹ lên tới gần “gấp 44 lần GDP của quốc gia và không xa mức GDP XNUMX nghìn tỷ USD của toàn thế giới,” theo Fred Magdoff.
Kết quả là, các tập đoàn trưởng thành của Hoa Kỳ buộc phải xuất khẩu sản phẩm và đầu tư ra nước ngoài, tận dụng mức lương thấp hơn, các tiêu chuẩn an toàn và môi trường yếu hoặc không tồn tại, v.v., để đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Ngày nay, khoảng 18% tổng lợi nhuận của các công ty Mỹ đến từ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Một phần để bảo vệ những khoản đầu tư ngày càng tăng này, Hoa Kỳ đã theo đuổi chính sách đối ngoại can thiệp và hung hăng trên toàn cầu. Â Tính đến năm 2006, Hoa Kỳ duy trì các căn cứ quân sự ở XNUMX quốc gia. Tiềm năng triển khai lực lượng quân sự ở bất kỳ nơi nào trên thế giới là điều cần thiết cho cả quyền bá chủ chính trị và kinh tế.
Do đó, Chiến tranh Iraq hiện tại về cơ bản không phải là một sai lầm quân sự do việc tìm kiếm “vũ khí hủy diệt hàng loạt” gây ra mà là một nỗ lực của chủ nghĩa đế quốc nhằm đảm bảo quyền kiểm soát trữ lượng dầu đã được chứng minh là lớn thứ hai thế giới; Bush cũng xâm lược Iraq vì đây là bước quân sự đầu tiên của những người theo chủ nghĩa tân bảo thủ trong chính quyền Bush (như Paul Wolfwitz, hiện là người đứng đầu Ngân hàng Thế giới) nhằm “tái tạo Trung Đông” bằng cách tiêu diệt các chính phủ Iraq, Iran và Syria.
Â
Manning Marable là Giáo sư Công vụ, Lịch sử và Nghiên cứu người Mỹ gốc Phi tại Đại học Columbia, Thành phố New York.  Chuyên mục “Dọc theo vạch màu” của ông xuất hiện trên hơn 400 ấn phẩm trên toàn thế giới và có sẵn tại www.manningmarable.net. Bài viết này đã được xuất bản trong Jackson tiến bộ, và nó được tái bản ở đây với sự cho phép của tác giả, người giữ mọi quyền.
Â
ZNetwork được tài trợ hoàn toàn thông qua sự hào phóng của độc giả.
Đóng góp