Khi Napoléon giao chiến với Nga trong một cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Âu, người Nga đã bố trí phòng thủ kiên quyết và người Pháp đã thua cuộc. Khi Hitler cố gắng làm điều tương tự, Liên Xô cũng đáp trả tương tự và quân Đức đã thua cuộc. Trong Thế chiến thứ nhất và cuộc nội chiến hậu cách mạng (1-1914), đầu tiên là Nga và sau đó là Liên Xô đã phòng thủ với hiệu quả lớn hơn nhiều trước hai cuộc xâm lược so với những gì kẻ xâm lược đã tính toán. Lịch sử đó đáng lẽ phải cảnh báo các nhà lãnh đạo Mỹ và châu Âu giảm thiểu rủi ro khi đối đầu với Nga, đặc biệt khi Nga cảm thấy bị đe dọa và quyết tâm tự vệ.
Thay vì thận trọng, những ảo tưởng đã dẫn đến những phán xét thiếu sáng suốt của toàn thể phương Tây (đại khái là các quốc gia G7: Mỹ và các đồng minh lớn của nước này). Những ảo tưởng đó xuất hiện một phần từ sự phủ nhận rộng rãi của phương Tây về sự suy thoái kinh tế tương đối của nó trong thế kỷ 21. Sự phủ nhận đó cũng tạo ra sự mù quáng đáng kể trước những giới hạn mà sự suy giảm áp đặt lên các hành động toàn cầu của phương Tây. Những ảo tưởng cũng xuất phát từ việc đánh giá thấp khả năng phòng thủ của Nga và những cam kết sau đó. Cuộc chiến Ukraine minh họa rõ ràng cho cả sự suy tàn lẫn những ảo tưởng tốn kém mà nó nuôi dưỡng.
Hoa Kỳ và Châu Âu đã đánh giá thấp một cách nghiêm trọng những gì Nga có thể và sẽ làm để chiếm ưu thế về mặt quân sự ở Ukraine. Chiến thắng của Nga—ít nhất là cho đến nay sau hai năm chiến tranh—đã chứng tỏ tính quyết định. Sự đánh giá thấp của họ bắt nguồn từ việc họ không có khả năng nắm bắt hoặc tiếp thu nền kinh tế thế giới đang thay đổi và những tác động của nó. Bằng cách chủ yếu giảm thiểu, gạt ra ngoài lề hoặc đơn giản phủ nhận sự suy tàn của đế quốc Mỹ so với sự trỗi dậy của Trung Quốc và các đồng minh BRICS, Mỹ và châu Âu đã bỏ lỡ những tác động đang bộc lộ của sự suy giảm đó. Sự hỗ trợ của các đồng minh Nga kết hợp với quyết tâm bảo vệ quốc gia của nước này cho đến nay đã đánh bại một Ukraine được phương Tây tập thể tài trợ và trang bị vũ khí mạnh mẽ. Về mặt lịch sử, đế chế đang suy tàn thường gây ra sự phủ nhận và ảo tưởng dạy cho người dân của họ những “bài học khó” và áp đặt cho họ “những lựa chọn khó khăn”. Đó là nơi chúng ta đang ở bây giờ.
Nền kinh tế của đế quốc Mỹ suy thoái tạo nên bối cảnh toàn cầu đang tiếp diễn. GDP, sự giàu có, thu nhập, tỷ trọng thương mại thế giới và sự hiện diện ở mức cao nhất của công nghệ mới của các nước BRICS ngày càng vượt quá của G7. Sự phát triển kinh tế không ngừng đó cũng tạo nên sự suy giảm ảnh hưởng về chính trị và văn hóa của G7. Chương trình trừng phạt ồ ạt của Mỹ và châu Âu chống lại Nga sau tháng 2022/XNUMX đã thất bại. Nga đặc biệt quay sang các đồng minh BRICS của mình để thoát khỏi hầu hết các tác động dự kiến của các biện pháp trừng phạt đó một cách nhanh chóng cũng như toàn diện.
Cuộc bỏ phiếu của Liên hợp quốc về vấn đề ngừng bắn ở Gaza phản ánh và củng cố những khó khăn ngày càng gia tăng mà vị thế của Mỹ ở Trung Đông và trên toàn cầu phải đối mặt. Sự can thiệp của người Houthis vào vận tải Biển Đỏ cũng như các sáng kiến khác của Ả Rập và Hồi giáo trong tương lai hỗ trợ Palestine chống lại Israel cũng vậy. Trong số những hậu quả đến từ nền kinh tế thế giới đang thay đổi, nhiều hậu quả có tác dụng làm suy yếu và suy yếu đế quốc Mỹ.
Sự thiếu tôn trọng của Trump đối với NATO một phần là biểu hiện của sự thất vọng đối với một thể chế mà ông có thể đổ lỗi vì đã không ngăn chặn được sự suy tàn của đế chế này. Trump và những người ủng hộ ông nói chung đã hạ cấp nhiều thể chế từng được cho là có vai trò quan trọng trong việc điều hành đế chế Mỹ trên toàn cầu. Cả chế độ Trump và Biden đều tấn công tập đoàn Huawei của Trung Quốc, chia sẻ các cam kết về cuộc chiến thương mại và thuế quan, đồng thời trợ cấp nặng nề cho các tập đoàn Mỹ đang thách thức cạnh tranh. Không gì khác hơn là một sự thay đổi mang tính lịch sử từ toàn cầu hóa tân tự do sang chủ nghĩa dân tộc kinh tế đang diễn ra. Một đế chế Mỹ từng nhắm tới toàn thế giới đang thu hẹp lại thành một khối khu vực đơn thuần đối đầu với một hoặc nhiều khối khu vực mới nổi. Phần lớn các quốc gia còn lại trên thế giới—có thể là “đại đa số thế giới” dân số trên hành tinh—đang rút khỏi đế quốc Mỹ.
Các chính sách dân tộc chủ nghĩa về kinh tế hung hãn của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đánh lạc hướng sự chú ý khỏi sự suy tàn của đế chế và do đó tạo điều kiện cho đế quốc này phủ nhận. Tuy nhiên, chúng cũng gây ra những vấn đề mới. Các đồng minh lo ngại rằng chủ nghĩa dân tộc kinh tế ở Hoa Kỳ đã hoặc sẽ sớm ảnh hưởng xấu đến quan hệ kinh tế của họ với Hoa Kỳ; “Nước Mỹ trên hết” không chỉ nhắm tới người Trung Quốc. Nhiều quốc gia đang suy nghĩ lại và xây dựng lại mối quan hệ kinh tế của họ với Hoa Kỳ cũng như kỳ vọng của họ về tương lai của những mối quan hệ đó. Tương tự như vậy, các nhóm chủ sử dụng lao động lớn ở Mỹ đang xem xét lại chiến lược đầu tư của họ. Những người đầu tư mạnh vào nước ngoài như một phần của cơn sốt toàn cầu hóa tân tự do trong nửa thế kỷ qua đặc biệt đáng sợ. Họ dự đoán chi phí và tổn thất từ những thay đổi chính sách theo hướng chủ nghĩa dân tộc kinh tế. Sự phản kháng của họ làm chậm lại những thay đổi đó. Khi các nhà tư bản ở khắp mọi nơi điều chỉnh một cách thực tế cho nền kinh tế thế giới đang thay đổi, họ cũng tranh cãi và tranh cãi về phương hướng và tốc độ thay đổi. Điều đó tạo ra nhiều bất ổn và biến động hơn vào nền kinh tế thế giới, do đó càng bất ổn hơn. Khi đế quốc Mỹ tan rã, trật tự kinh tế thế giới mà nó từng thống trị và thực thi cũng thay đổi theo.
Các khẩu hiệu “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” (MAGA) đã vũ khí hóa sự suy tàn của đế quốc Hoa Kỳ về mặt chính trị, luôn ở dạng những thuật ngữ chung chung và mơ hồ một cách cẩn thận. Họ đơn giản hóa và hiểu sai nó trong một loạt ảo tưởng khác. Ông Trump sẽ hứa nhiều lần rằng sẽ xóa bỏ sự suy giảm đó và đảo ngược nó. Ông ấy sẽ trừng phạt những người mà ông ấy đổ lỗi cho điều đó: Trung Quốc, cũng như cả những người thuộc Đảng Dân chủ, những người theo chủ nghĩa tự do, những người theo chủ nghĩa toàn cầu hóa, những người theo chủ nghĩa xã hội và những người theo chủ nghĩa Marx, những người mà ông ấy gộp lại trong một chiến lược xây dựng khối. Hiếm khi có bất kỳ sự chú ý nghiêm túc nào đến tính kinh tế của sự suy thoái của G7 vì làm như vậy sẽ ám chỉ nghiêm trọng các quyết định hướng đến lợi nhuận của các nhà tư bản là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm. Cả đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ đều không dám làm điều đó. Biden nói và hành động như thể sự giàu có và vị thế quyền lực của Hoa Kỳ trong nền kinh tế thế giới không hề bị suy giảm so với nửa sau thế kỷ 20 (phần lớn cuộc đời chính trị của Biden).
Tiếp tục tài trợ và vũ trang cho Ukraine trong cuộc chiến với Nga, như ủng hộ và ủng hộ cách đối xử của Israel với người Palestine, là những chính sách dựa trên sự phủ nhận về một thế giới đã thay đổi. Các làn sóng trừng phạt kinh tế liên tiếp cũng vậy mặc dù mỗi làn sóng đều không đạt được mục tiêu. Sử dụng thuế quan để ngăn chặn xe điện Trung Quốc tốt hơn, rẻ hơn khỏi thị trường Mỹ sẽ chỉ gây bất lợi cho các cá nhân và doanh nghiệp Hoa Kỳ (thông qua giá xe điện Trung Quốc cao hơn) và các doanh nghiệp (thông qua sự cạnh tranh toàn cầu từ các doanh nghiệp mua ô tô và xe tải Trung Quốc rẻ hơn).
Có lẽ những ảo tưởng lớn nhất, tốn kém nhất xuất phát từ việc phủ nhận nhiều năm suy tàn ảnh hưởng đến cuộc bầu cử tổng thống sắp tới. Hai đảng lớn và các ứng cử viên của họ không đưa ra kế hoạch nghiêm túc nào về cách đối phó với đế chế đang suy tàn mà họ muốn lãnh đạo. Cả hai đảng thay nhau chủ trì sự suy thoái, tuy nhiên việc phủ nhận và đổ lỗi cho bên kia đều là những lời đề nghị của một trong hai đảng vào năm 2024. Biden đề nghị cử tri hợp tác để phủ nhận rằng đế chế đang suy tàn. Trump hứa hẹn một cách mơ hồ sẽ khắc phục tình trạng suy thoái do sự lãnh đạo tồi tệ của Đảng Dân chủ gây ra mà cuộc bầu cử của ông sẽ loại bỏ. Cả hai đảng lớn đều không yêu cầu phải thừa nhận và đánh giá một cách tỉnh táo về nền kinh tế thế giới đang thay đổi cũng như cách mỗi bên lên kế hoạch đối phó với điều đó.
Lịch sử kinh tế 40 đến 50 năm qua của G7 đã chứng kiến sự phân phối lại của cải và thu nhập theo hướng đi lên một cách cực đoan. Những sự phân phối lại đó đóng vai trò vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của toàn cầu hóa tân tự do. Tuy nhiên, những phản ứng trong nước (sự chia rẽ kinh tế và xã hội ngày càng thù địch và bất ổn) và những phản ứng từ bên ngoài (sự nổi lên của Trung Quốc và BRICS ngày nay) đang làm suy yếu toàn cầu hóa tân tự do và bắt đầu thách thức những bất bình đẳng đi kèm với nó. Chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ và đế chế của nó vẫn chưa thể đối mặt với sự suy tàn trong bối cảnh một thế giới đang thay đổi. Những ảo tưởng về việc duy trì hoặc giành lại quyền lực ở tầng lớp thượng lưu xã hội ngày càng sinh sôi nảy nở bên cạnh những thuyết âm mưu ảo tưởng và những vật tế thần chính trị (người nhập cư, Trung Quốc, Nga) bên dưới.
Trong khi đó, chi phí kinh tế, chính trị và văn hóa ngày càng tăng. Và ở một mức độ nào đó, theo bài hát nổi tiếng của Leonard Cohen, “Mọi người đều biết”.
Bài viết này được sản xuất bởi Kinh tế cho tất cả, một dự án của Viện truyền thông độc lập.
ZNetwork được tài trợ hoàn toàn thông qua sự hào phóng của độc giả.
Đóng góp