Sự tò mò đôi khi có thể giết chết một con mèo. Nhưng sự thiếu tò mò có thể khiến nghề báo kết thúc với thành kiến cực đoan.
Tổng thống Bush nói trong bài diễn văn Thông điệp Liên bang: “Chúng ta sẽ không đặt ra một thời gian biểu giả tạo cho việc rời khỏi Iraq, vì điều đó sẽ khuyến khích những kẻ khủng bố và khiến chúng tin rằng chúng có thể chờ đợi chúng ta”. “Chúng tôi đến Iraq để đạt được một kết quả: Một đất nước dân chủ, đại diện cho toàn thể người dân, hòa bình với các nước láng giềng và có khả năng tự vệ.”
Tổng thống Johnson cũng nói điều tương tự về cuộc chiến leo thang ở Việt Nam. Lời hùng biện của ông là điển hình vào ngày 12 tháng 1966 năm XNUMX: “Chúng tôi đấu tranh cho nguyên tắc tự quyết - rằng người dân miền Nam Việt Nam phải được quyền lựa chọn con đường riêng của mình, chọn con đường đó trong các cuộc bầu cử tự do mà không có bạo lực, không có khủng bố, và không hề sợ hãi.”
Bất cứ ai theo dõi tin tức chính thống đều có thể theo dõi nhanh chóng vòng quay tổng thống mới nhất. Nhưng những phóng viên kể cho chúng ta những gì tổng thống muốn chúng ta nghe phải vượt ra ngoài tốc ký để ghi lại những tiếng vang lịch sử và chỉ ra những mâu thuẫn cơ bản.
Vài ngày trước cuộc bỏ phiếu ở Iraq, câu chuyện chính trên trang nhất của tờ New York Times - tóm tắt cuộc phỏng vấn độc quyền của tờ báo với Tổng thống Bush - đã đưa tin về khẳng định của ông “rằng ông ấy sẽ rút lực lượng Mỹ khỏi Iraq”. nếu chính phủ mới được bầu vào Chủ nhật yêu cầu ông làm như vậy, nhưng ông mong đợi các nhà lãnh đạo được bầu cử dân chủ đầu tiên của Iraq sẽ muốn quân đội ở lại.
Về mặt logic, tuyên bố của tổng thống lẽ ra phải phát ra những tiếng chuông cảnh báo - chẳng hạn như “Có chuyện gì với bức ảnh này vậy?” Ví dụ: Các cuộc thăm dò dư luận ở Iraq luôn cho thấy rằng hầu hết người Iraq muốn quân đội Mỹ tấn công. nhanh chóng rút khỏi đất nước của họ. Tuy nhiên, Bush khẳng định rằng cuộc bầu cử ở Iraq sẽ mang tính dân chủ - ngay cả khi ông bày tỏ sự tin tưởng rằng chính phủ thành lập sẽ thách thức mong muốn của hầu hết người dân Iraq về vấn đề liệu lực lượng quân sự Mỹ có nên ở lại hay không.
Cách dễ dàng để các nhà báo dung hòa mâu thuẫn này là phớt lờ nó - một cách tiếp cận thông thường trong việc đưa tin.
Sức mạnh quân sự có cách tạo ra một số khu vực bầu cử chính trị cho chính nó. Và điều đó chắc chắn đúng với dấu chân to lớn của Lầu Năm Góc ở Iraq, nơi cuộc bỏ phiếu ngày 30 tháng XNUMX là một phần của một quá trình bí ẩn - với một ủy ban bầu cử do Hoa Kỳ lựa chọn và các quy tắc cơ bản nhằm giữ vững lập trường chính trị của các ứng cử viên, và thậm chí cả quan điểm chính trị của họ. những cái tên, phần lớn là bí mật với cử tri. Trong những tháng tới, khả năng mất kết nối giữa cử tri và chính sách của các nhà lãnh đạo chính phủ mới là rất lớn.
Kể từ mùa hè năm ngoái, ban lãnh đạo của chính phủ “lâm thời” ở Baghdad phần lớn bao gồm những người Iraq chọn đứng về phía những người chiếm đóng. Tại thời điểm này, hy vọng về quyền lực - và có lẽ cả mạng sống của họ - phụ thuộc vào sự hiện diện liên tục trên quy mô lớn của quân đội Mỹ.
Đương nhiên, thủ tướng đương nhiệm Ayad Allawi, được chính phủ Mỹ bổ nhiệm vào tháng 6 năm ngoái, hiện tuyên bố lực lượng nổi dậy sẽ bị đánh bại nếu quân Mỹ ở lại đủ lâu. Ngay cả Tổng thống Ghazi al-Yawer, người từng chỉ trích một số khía cạnh trong hoạt động quân sự của Mỹ ở Iraq, giờ đây cũng đang đề cao sự cần thiết của nắm đấm sắt của Chú Sam. Khi tháng Hai bắt đầu, al-Yawer tuyên bố trong một cuộc họp báo: “Việc yêu cầu quân đội rời đi trong tình trạng hỗn loạn và khoảng trống quyền lực này là điều hoàn toàn vô nghĩa”.
Viết trên tờ Boston Globe số ra ngày 1 tháng XNUMX, nhà báo James Carroll đã chỉ ra một động lực chính: “Sự hỗn loạn của một xã hội bị phá hủy khiến mọi công cụ quản lý mới đều phụ thuộc vào lực lượng Mỹ, ngay cả khi lực lượng Mỹ cho thấy mình không có khả năng phòng thủ chống lại, chứ đừng nói đến việc đánh bại, các quân đoàn cảm tử. Sự trớ trêu thật tinh tế. Bạo lực càng trở nên tồi tệ, người Mỹ sẽ càng đòi quyền ở lại lâu hơn. Theo cách đó, những 'kẻ nổi dậy' táo bạo hơn bao giờ hết - và tàn bạo - đang làm công việc của Bush cho ông ta bằng cách gây khó khăn cho việc xuất hiện một nguồn trật tự đích thực của Iraq.
Trong khi đó, tờ Guardian có trụ sở tại London đã đăng một bài tiểu luận gây chấn động của một giảng viên đại học đã rời Iraq dưới thời Saddam Hussein cai trị. Sami Ramadani viết: “Ngày 4 tháng 1967 năm 83, tờ New York Times đăng một câu chuyện lạc quan về cuộc bầu cử tổng thống do chế độ bù nhìn Nam Việt Nam tổ chức vào thời kỳ đỉnh cao của Chiến tranh Việt Nam. Dưới tiêu đề “Mỹ được khuyến khích bỏ phiếu tại Việt Nam: Các quan chức cho biết tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu là XNUMX% bất chấp sự khủng bố của Việt Cộng”, tờ báo đưa tin rằng người Mỹ đã “ngạc nhiên và phấn khởi” trước quy mô của số cử tri đi bỏ phiếu “bất chấp một chiến dịch khủng bố của Việt Cộng nhằm phá rối cuộc bầu cử.”
Nó tiếp tục, một cuộc bầu cử thành công “từ lâu đã được coi là hòn đá tảng trong chính sách của Tổng thống Johnson nhằm khuyến khích sự phát triển của các tiến trình lập hiến ở miền Nam Việt Nam”. Tiếng vang của tuyên truyền cuối tuần này về Iraq” cuộc bầu cử đang đến gần đến mức kỳ lạ.”
Trong những ngày đầu tiên sau cuộc bỏ phiếu ở Iraq, rất ít sự thật đáng lo ngại đã được đưa tin rộng rãi ở Hoa Kỳ. Nhưng những cốt truyện cổ tích xuyên suốt các bài tường thuật và bình luận sẽ sớm mắc cạn trên những rạn san hô cứng rắn của thực tế. Chính phủ Mỹ dự kiến sẽ duy trì số lượng lớn binh sĩ ở Iraq trong thời gian dài. Và không có lượng tiếng vỗ tay như sấm sét và lời khen ngợi nào của giới truyền thông dành cho Thông điệp Liên bang có thể thay đổi được sự khác biệt chết người giữa lời nói dân chủ và sự chiếm đóng quân sự.
_______________________________________
Cuốn sách tiếp theo của Norman Solomon, “Chiến tranh dễ dàng: Làm thế nào các Tổng thống và các học giả tiếp tục quay chúng ta đến chết” sẽ được Wiley xuất bản vào đầu mùa hè. Các chuyên mục và bài viết khác của ông có thể được tìm thấy tại www.normansolomon.com.