Đó là một thế giới khó sinh ra, ngay cả đối với các quốc gia. Tuần này Đông Timor, một nửa hòn đảo nhỏ cách Australia vài trăm dặm về phía bắc, đã trở thành thành viên trẻ nhất của cái gọi là cộng đồng quốc tế. Chính quyền tạm thời của Liên hợp quốc, được thành lập cách đây ba năm, đã ra đi sau khi quân đội Indonesia nổi điên khi người Timor bỏ phiếu trong một cuộc trưng cầu dân ý đòi độc lập. Thay vào đó là các nhà lãnh đạo của một trong những phong trào kháng chiến dũng cảm nhất thời hiện đại, những người đã chiến đấu suốt hai thập kỷ trên núi và kiên trì vận động hành lang ở các thủ đô nước ngoài để đưa việc chiếm đóng bất hợp pháp Đông Timor vào chương trình nghị sự quốc tế.
Người ta có thể nghĩ rằng một quốc gia nhỏ bé với lịch sử khó khăn như vậy có thể được vô tội trong vài năm khi cuối cùng đã giành được chủ quyền. Nhưng không. Bàn tay đáng sợ của quyền bá chủ Mỹ, về mặt doanh nghiệp cũng như ngoại giao, đã ra tay, bóp chặt bào thai trong bụng mẹ.
Không giống như Bosnia, Campuchia, Haiti và Kosovo, nơi Liên hợp quốc gần đây có hoặc vẫn có các cơ quan cố vấn hoặc hành chính, Đông Timor rất giàu có. Nó có trữ lượng dầu khí lớn dưới biển, ngăn cách đất nước với Úc. Hiếm có trong số các quốc gia nhỏ đang phát triển, Đông Timor có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình và tránh nợ nước ngoài.
Vì vậy, một trong những quyết định đầu tiên mà chính quyền Liên Hợp Quốc đưa ra khi đến Dili vào năm 1999 để giúp chuẩn bị cho đất nước giành độc lập là mở các cuộc đàm phán với Australia về một hiệp ước năng lượng mới thay mặt cho Đông Timor. Lẽ ra họ có thể chờ đợi và để vấn đề này cho người Timor giải quyết sau khi giành được độc lập. Nhưng các quan chức Liên hợp quốc cảm thấy họ phải tiếp tục, mặc dù điều đó đặt Liên hợp quốc vào một vị trí đặc biệt là trở thành đối thủ đối đầu với một chính phủ có chủ quyền, Australia, một thành viên giàu có và quyền lực trong hệ thống Liên hợp quốc.
Liên Hợp Quốc đã đấu tranh gay gắt để có được một thỏa thuận tốt hơn từ Australia và các công ty dầu mỏ hùng mạnh, bao gồm cả Phillips Petroleum có trụ sở tại Hoa Kỳ, so với thỏa thuận mà Indonesia đã đạt được nhiều năm trước đó. Điều bất ngờ xảy ra vào năm ngoái khi Mỹ bắt đầu cảnh báo Đông Timor không nên thúc ép Australia quá mạnh ngay sau khi Phó Tổng thống Dick Cheney tiếp các đại diện Australia tại văn phòng của ông ở Washington. Tất nhiên, ông Cheney là một người kinh doanh dầu mỏ, thường xuyên có quan hệ với các doanh nhân nhưng ông đã lợi dụng sức nặng của vị trí chính phủ của mình để can thiệp vào các cuộc thảo luận giữa Liên hợp quốc và một chính phủ nước ngoài. Kỳ quặc nhưng là dấu hiệu của thế giới mà Đông Timor nhỏ bé đang bước vào. Các nhà đàm phán LHQ của Đông Timor phản đối và không nhượng bộ.
Gần đây hơn, đến lượt Ngoại trưởng Colin Powell, người “ôn hòa” của chính quyền Bush. Cách đây một tháng, ông đã viết thư cho chính phủ mới, cảnh báo họ phải đưa ra lời hứa bằng văn bản sẽ không truy tố bất kỳ công dân Mỹ nào về tội ác chống lại loài người theo thủ tục của tòa án hình sự quốc tế mới thành lập. Nếu không, Quốc hội Hoa Kỳ sẽ khó tiếp tục viện trợ, ông khuyên họ.
Không có quân Mỹ trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở Đông Timor, khiến yêu cầu của Mỹ gần như hoàn toàn mang tính lý thuyết. Khó có thể thấy được tính cấp bách của cam kết được yêu cầu từ Đông Timor, chưa nói đến việc buộc một quốc gia phải đưa ra những ngoại lệ đối với một trong những hiệp ước quốc tế đầu tiên mà nước này dự định ký kết, nhưng nhân dịp này Timor đã nhượng bộ. Nguyên tắc là Vấn đề là: ngay cả các quốc gia còn phôi thai cũng phải tuyên bố phụ thuộc vào đế chế duy nhất còn lại của thế giới trước khi họ đảm nhận “sự độc lập” trên danh nghĩa của mình.
Nếu vai trò lịch sử của Hoa Kỳ trong cuộc đấu tranh giành chủ quyền lâu dài ở Đông Timor là tốt đẹp thì chiến thuật gây áp lực của chính quyền Bush có vẻ bớt lố bịch hơn. Nhưng bàn tay của Washington từ lâu đã nhuốm máu. Các tài liệu mật trước đây được công bố vào tháng 1975 năm ngoái cho thấy Henry Kissinger, khi đó là ngoại trưởng, đã phê duyệt kế hoạch xâm lược Đông Timor của Indonesia sau khi người Bồ Đào Nha, những người thực dân ban đầu, rút lui vào năm 1975. Trong “các điểm thảo luận” được chuẩn bị cho chuyến thăm của Tổng thống Gerald Ford tới Jakarta vào năm Tháng XNUMX năm XNUMX, Kissinger đề xuất tăng gấp đôi viện trợ quân sự của Mỹ cho Indonesia. Ông cũng mô tả “việc sáp nhập Đông Timor với Indonesia” là “một giải pháp hợp lý”.
Tình báo Mỹ nhận thấy sự chuẩn bị ngày càng tăng cho một cuộc xâm lược và khi Ford gặp Tướng Suharto, nhà độc tài Indonesia đã nói với ông: “Chúng tôi mong nhận được sự thông cảm của ông nếu chúng tôi thấy cần phải hành động nhanh chóng hoặc quyết liệt”. Ford trả lời: “Chúng tôi sẽ hiểu và không ép buộc ông về vấn đề này”. Mối lo ngại duy nhất của Kissinger là vũ khí do Mỹ sản xuất sẽ không được sử dụng và không có hành động quân sự nào được thực hiện cho đến khi ông và Ford rời khỏi Indonesia. Kissinger nói với Suharto: “Nếu ông đã lập kế hoạch, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để giữ mọi người im lặng cho đến khi tổng thống trở về nhà”.
Cuộc xâm lược xảy ra hai ngày sau đó khi phía Mỹ tiến đến Phillippines. Trong suốt 24 năm Indonesia chiếm đóng, có tới 200,000 người Timor được cho là đã chết. Bill Clinton, người đại diện cho Hoa Kỳ tại lễ bàn giao của Liên hợp quốc ở Dili hôm Chủ nhật, có thành tích tốt hơn ở Đông Timor nhưng đối với nhiều người Timor, ông là một biểu tượng tiêu cực, một người không hành động.
Khi chính phủ mới hậu Suharto của Indonesia đồng ý vào tháng 1999 năm XNUMX cho phép trưng cầu dân ý về độc lập, an ninh là vấn đề quyết định. Mặc dù ai cũng biết rằng quân đội Indonesia đã bắt đầu tổ chức dân quân địa phương để quấy rối và sát hại những người ủng hộ độc lập, nhưng Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vẫn đồng ý để Indonesia, thay vì lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế, duy trì an ninh trong giai đoạn tiền trưng cầu dân ý. .
Về mặt công khai, lập luận cho rằng Indonesia đã có một sự nhượng bộ lớn khi đồng ý tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý. Việc đòi hỏi lực lượng gìn giữ hòa bình nước ngoài sẽ là một yêu cầu quá xa vời. Riêng tư, người ta nói rằng Mỹ sẽ gây áp lực lên chính phủ Indonesia, vốn đang rất cần các khoản vay của IMF, để kiềm chế quân đội và lực lượng dân quân. Không cần phải lo lắng về an ninh.
Clinton đã làm người Timor thất vọng. Nếu ông ấy gây áp lực lên Indonesia thì điều đó cũng không có tác dụng gì. Bạo lực lên đến đỉnh điểm vài giờ sau cuộc bỏ phiếu khi có thông tin rõ ràng rằng cử tri đã chọn tự do và chống lại Indonesia. Quân đội và dân quân đã lục soát Dili cũng như các thị trấn và làng mạc khác, vận chuyển hàng trăm nghìn người đến Tây Timor và buộc phần dân số còn lại phải chạy trốn lên đồi. Chỉ sau đó, Mỹ cuối cùng mới cân nhắc, dưới áp lực của truyền thông quốc tế và thuyết phục người Indonesia chấp nhận kết quả trưng cầu dân ý, rút lực lượng và cho phép lực lượng gìn giữ hòa bình nước ngoài vào.
Ngay cả bây giờ, Mỹ vẫn không gây áp lực buộc Indonesia phải xem xét nghiêm túc tòa án được thành lập ở Jakarta để xét xử các cựu tướng lĩnh và thủ lĩnh dân quân hoặc giao nộp các nghi phạm bị truy tố ở Đông Timor để xét xử ở Dili. Là một phần của “cuộc chiến chống khủng bố”, các quan chức cấp cao của chính quyền Mỹ muốn nới lỏng các hạn chế liên lạc với quân đội Indonesia.
Thay vì ép Đông Timor nhỏ bé tuân theo đường lối bác bỏ của Mỹ trên tòa án hình sự quốc tế, chính quyền Bush sẽ làm tốt hơn để thực thi công lý cho Timorese khi cuối cùng họ trở thành một quốc gia-dân tộc. Không có nhiều cơ hội cho điều đó.
ZNetwork được tài trợ hoàn toàn thông qua sự hào phóng của độc giả.
Đóng góp