John Feffer là đồng giám đốc của Chính sách đối ngoại tập trung tại Viện nghiên cứu chính sách. Ông đã nói chuyện với Alex Doherty về chính trị của Triều Tiên dưới thời cố lãnh đạo Kim Jong Il và đất nước này có thể đi về đâu từ đây.
Bên ngoài Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, Kim Jong Il phần lớn được coi là một gã hề buồn cười và tệ nhất là một nhà độc tài quái dị, người đứng đầu một trong những chế độ đàn áp nhất trong lịch sử hiện đại. Bạn nghĩ lịch sử sẽ phán xét Kim Jong Il và chế độ của ông ta như thế nào?
Tôi nghĩ Kim Jong Il sẽ bị phán xét gay gắt, khắc nghiệt như Enver Hoxha ở Albania. Cả hai nhà lãnh đạo đều cố gắng bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của đất nước mình – nhưng với cái giá phải trả là rất lớn. Cả hai đều chỉ đạo con đường giữa các siêu cường. Cả hai đều mong muốn tạo ra nền kinh tế tự cung tự cấp và nền văn hóa nguyên khối. Tuy nhiên, chính sách của họ dẫn đến tình trạng giám sát, nghèo đói và cô lập. Ngoài ra, Kim Jong Il không có sức thu hút như cha mình cũng như sự tàn nhẫn của ông. Ông đã đưa đất nước của mình gia nhập câu lạc bộ hạt nhân, điều có thể đã ngăn chặn sự can thiệp quân sự từ bên ngoài. Nhưng các chính sách phổ biến vũ khí hạt nhân của chế độ này – liên quan đến Pakistan, Iran, có thể cả Syria – đã không làm cho thế giới trở nên an toàn hơn chút nào.
Có ý kiến cho rằng người kế nhiệm Kim Jong Il – con trai út Kim Jong-un – có thể sẽ làm gia tăng căng thẳng trong khu vực trong thời gian đầu cầm quyền của ông nhằm củng cố quyền lực trong nước. Bạn có nghĩ đó là một đánh giá đáng tin cậy về những gì chúng ta có thể mong đợi sẽ xảy ra trong thời gian ngắn không?
Không có lý do cụ thể nào để mong đợi Kim Jong Eun theo đuổi những chính sách gây rối. Kim Jong Il đã không bắt tay vào nỗ lực làm gia tăng căng thẳng trong khu vực sau cái chết của Kim Nhật Thành. Có thể có một số màn phô trương sức mạnh mang tính biểu tượng để chứng minh rằng Triều Tiên không bị suy yếu bởi sự kế thừa này. Nhưng quỹ đạo mà Kim Jong Il đã đi trước năm 2012 quan trọng này – kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Kim Nhật Thành – là một trong những cam kết khu vực: với Nga, Trung Quốc và Hàn Quốc. Những nỗ lực cũng đã được thực hiện để tái hợp tác với Hoa Kỳ. Trong ngắn hạn, chúng ta có thể mong đợi việc tiếp tục thực hiện các chính sách này nhằm hoàn thành di sản của Kim Jong Il.
Điển hình là sự cô lập của Triều Tiên được miêu tả là hoàn toàn tự gây ra - Hoa Kỳ và chính quyền Lee Myung Bak ở Hàn Quốc đã góp phần vào sự cô lập đó ở mức độ nào?
Sự cô lập của Triều Tiên một phần phản ánh triết lý, một phần là tính toán địa chính trị và một phần là kết quả của chính sách của các tác nhân bên ngoài. Ban đầu, Triều Tiên chọn cách tránh chấp nhận một vị trí phụ thuộc trong phạm vi Liên Xô, và do đó áp dụng triết lý tự lực cánh sinh. Sau đó, khi kêu gọi các khoản vay từ châu Âu vào những năm 1970, họ phát hiện ra rằng mình không có đủ nguồn lực cũng như không có mong muốn chấp nhận vai trò phụ thuộc trong thế giới tư bản. Vào những năm 1990, thái độ này chuyển thành thái độ cảnh giác nhất định đối với cả Trung Quốc và Hàn Quốc. Ngày nay, các chính sách cứng rắn hơn của Lee Myung Bak đã không khuyến khích xu hướng biệt lập ở Triều Tiên mà đúng hơn là đẩy nước này đi sâu hơn vào vòng xoáy hoài nghi đối với Trung Quốc. Trong khi đó, các chính sách trừng phạt của Mỹ về cơ bản đã được áp dụng kể từ Chiến tranh Triều Tiên. Vì vậy, các chính sách của Mỹ không tạo ra xu hướng biệt lập của Triều Tiên trong Chiến tranh Lạnh, nhưng đã khuyến khích điều đó. Tuy nhiên, nếu hôm nay Hoa Kỳ thực hiện một “cuộc tấn công quyến rũ” và chào đón Triều Tiên gia nhập cộng đồng quốc tế - và các tổ chức tài chính quốc tế - thì chúng ta rất có thể sẽ thấy sự kết thúc của tình trạng cô lập tương đối của Triều Tiên. Bình Nhưỡng không còn có bất kỳ sự phản đối ý thức hệ nào đối với chủ nghĩa tư bản, chừng nào tầng lớp tinh hoa hiện tại vẫn nắm quyền.
Với thực tế kinh tế hiện tại, bạn nghĩ tại sao Kim Jong Il không theo đuổi chiến lược kinh tế tương tự như đồng minh và nhà tài trợ của mình – Trung Quốc?
Có một vài lý do khiến tình hình ở Triều Tiên khác với tình hình ở Trung Quốc vào cuối những năm 1970. Trước hết, không có nhiều nhà đầu tư quan tâm đến Triều Tiên như Trung Quốc. Nó đi xuống con số. Một tỷ người Trung Quốc đại diện cho một thị trường tiềm năng đáng kể. Nếu so sánh, 25 triệu người Triều Tiên không đáng để đầu tư. Thứ hai, Trung Quốc phần lớn là một xã hội nông nghiệp vào thời điểm cải cách năm 1979. Nó có thể đạt được nhiều thành tựu chỉ bằng cách cải cách lĩnh vực nông nghiệp. Triều Tiên là một xã hội chủ yếu là công nghiệp, vì vậy cải cách nông nghiệp sẽ không có tác dụng tương tự. Ngoài những khác biệt này, Triều Tiên không muốn đơn giản đi theo khuôn mẫu nước ngoài. Họ muốn phát triển con đường riêng phản ánh vị thế kinh tế tương đối tiên tiến của mình (tiến bộ so với vị thế của Trung Quốc khi nước này bắt đầu cải cách vào những năm 1970). Cuối cùng, tôi không nghĩ giới cầm quyền Bắc Triều Tiên đã tìm ra cách chắc chắn để đưa ra những cải cách kinh tế mà không làm xói mòn vị thế chính trị chỉ huy của chính họ trong xã hội. Nếu nó có thể trả lời câu đố này, chúng ta có thể thấy một phiên bản của mô hình cải cách Trung Quốc được giới thiệu ở Triều Tiên dưới một tựa đề khác và có nguồn gốc Triều Tiên rõ ràng.
Quan điểm của bạn về chương trình hạt nhân của Triều Tiên: nó có thuần túy là một biện pháp phòng thủ để tránh sự can thiệp của Mỹ không? Và liệu chương trình hạt nhân có phải là một phản ứng trước những mối đe dọa có thật hay chỉ là tưởng tượng về sự thay đổi chế độ?
Chương trình hạt nhân được thiết kế để đáp ứng một số nhu cầu. Trước hết, nó đã giúp tạo ra một sân chơi bình đẳng với các đối thủ của Triều Tiên, trong bối cảnh năng lực quân sự thông thường của Triều Tiên đang suy giảm nhanh chóng. Thứ hai, nó đóng vai trò là biện pháp răn đe tối thượng, đặc biệt trong bối cảnh những gì đã xảy ra ở Serbia, Iraq và Libya. Thứ ba, nó thể hiện dấu ấn của sự khác biệt quốc tế vì rất ít quốc gia tham gia câu lạc bộ hạt nhân. Thứ tư, nó đã phục vụ việc cung cấp một biện pháp hợp pháp cho chính phủ vào thời điểm kinh tế khó khăn. Thứ năm, nước này là nước kiếm tiền trong mối quan hệ với những nước muốn có năng lượng hạt nhân (ví dụ: Iran). Và cuối cùng, nó đóng vai trò như một công cụ thương lượng lúc không lúc không liên tục để đảm bảo sự tham gia của cộng đồng quốc tế, đạt được những nhượng bộ và có khả năng đánh đổi để có được một giải pháp toàn diện cho phép Triều Tiên thực hiện bước nhảy vọt về mặt kinh tế. trường hợp.
Tất nhiên, chức năng còn thiếu trong danh sách này là việc sử dụng vũ khí hạt nhân trên thực tế. Triều Tiên không bị rơi vào cuộc đọ sức với các quốc gia hạt nhân khác trong khu vực (như với Ấn Độ và Pakistan ở Nam Á). Một kho vũ khí hạt nhân nhỏ và không đáng tin cậy cũng sẽ không đóng vai trò quan trọng trên chiến trường chống lại những đối thủ có kho vũ khí khổng lồ (Hoa Kỳ) hoặc nằm dưới sự bảo trợ của các cường quốc như vậy (Hàn Quốc, Nhật Bản).
ZNetwork được tài trợ hoàn toàn thông qua sự hào phóng của độc giả.
Đóng góp