Việc chỉ trích Chávez từ lâu đã trở thành một vấn đề đạo đức được cân nhắc kỹ lưỡng trong giới tinh hoa Hoa Kỳ. Các ví dụ gần đây nhất xuất hiện trên số ra ngày 21 tháng 60 của tờ New York Times và Washington Post, trong đó ghi lại những cáo buộc rằng Chávez phải chịu trách nhiệm về sự gia tăng tội phạm ở Venezuela và sự bất ổn ở Colombia. Mối quan tâm lớn nhất của Washington Post là một báo cáo được công bố gần đây của Văn phòng Trách nhiệm Chính phủ Hoa Kỳ (GAO) trong đó phác thảo “sự tham nhũng ở cấp cao của chính phủ Tổng thống Hugo Chávez và viện trợ nhà nước cho quân du kích buôn bán ma túy ở Colombia [mà] đã khiến Venezuela trở thành một bệ phóng lớn cho cocaine đến Hoa Kỳ và Châu Âu.” Sự chú ý đổ dồn vào lực lượng du kích Marxist FARC của Colombia, được Bưu điện ước tính kiểm soát XNUMX% hoạt động buôn bán cocaine của Colombia. Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa Richard Lugar được dành chỗ trên tờ Post để bôi xấu Venezuela vì “trở thành một quốc gia ma túy, phụ thuộc nhiều vào hoạt động buôn bán ma túy bất hợp pháp quốc tế”.
Không chịu thua kém, câu chuyện ngày 21 tháng 3.5 của tờ Times ám chỉ Chávez có liên quan đến vụ bắt cóc công dân sống ở thành phố Barinas, nằm ở phía tây Venezuela, ngày càng gia tăng. Barinas phải chịu tỷ lệ bắt cóc cao hơn XNUMX lần so với phần còn lại của đất nước và thành phố hiện do anh trai của Chávez là Adán Chávez quản lý. The Times không trích dẫn bằng chứng nào về sự đồng lõa của gia đình Chávez trong các vụ bắt cóc ở Barinas, nhưng điều này không ngăn cản tờ báo xây dựng mối liên hệ chung giữa “các băng nhóm vũ trang [mà] phát triển mạnh mẽ từ tình trạng hỗn loạn [ở Barinas] trong khi gia đình ông Chávez siết chặt kiểm soát nhà nước." Người đọc thậm chí sẽ không tìm thấy sự giả vờ khách quan trong lối hùng biện mang tính kích động như vậy.
Tìm kiếm bằng chứng thực tế về mối liên hệ giữa Chávez và vụ bắt cóc không nằm trong kế hoạch trò chơi của Times. Họ thà diễn thuyết công khai một cách lầy lội với những cuộc bút chiến mơ hồ nhắm vào chế độ Chávez. Trên thực tế, tờ Times thừa nhận rằng sự tham gia chính của Chávez vào Barinas không phải nhằm làm hại người nghèo (những người ngày càng phải chịu đựng các vụ bắt cóc), mà là nỗ lực cải thiện số đông quần chúng thông qua việc thực hiện cải cách ruộng đất và sử dụng quỹ dầu mỏ để cải thiện cuộc sống. chương trình lành mạnh.
Các cuộc tấn công vào Chávez cũng đi kèm với cuộc trưng cầu dân ý năm 2009 của Venezuela, bãi bỏ giới hạn nhiệm kỳ tổng thống 12 năm của đất nước. Tờ Times đã xã luận trước cuộc trưng cầu dân ý rằng Chávez là một “nhà chuyên quyền về vấn đề tiêu chuẩn - tích trữ quyền lực, bóp nghẹt bất đồng chính kiến và chi tiêu của cải dầu mỏ của quốc gia cho hỗ trợ chính trị.” Trớ trêu thay, những cuộc tấn công như vậy lại kéo theo sự thừa nhận rằng sự hỗ trợ của Chávez xuất phát từ các chương trình phúc lợi xã hội mà ông thực hiện, mang lại lợi ích cho đại đa số người dân nghèo ở Venezuela. Tuy nhiên, sự ủng hộ của ông dành cho quần chúng bị xóa bỏ mà không cần thảo luận vì coi đó là không quan trọng, như tờ Times theo chủ nghĩa gia trưởng và kêu gọi những người Venezuela “tin vào nền dân chủ của họ” hãy “bỏ phiếu không” về việc chấm dứt giới hạn nhiệm kỳ.
Một số điểm đáng được suy ngẫm khi đánh giá các cuộc tấn công vào Chávez. Về vấn đề Colombia, theo nghĩa đen, không có bối cảnh nào được đưa ra trên tờ Times và Post đưa tin về vai trò công cụ của Hoa Kỳ trong việc tạo ra cuộc khủng hoảng ma túy. Không có sự chú ý nào hướng đến thực tế là các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã chi hàng tỷ đô la để đào tạo và cung cấp cho các nhóm bán quân sự cánh hữu, chống FARC ở Colombia (liên minh với chính phủ Colombia) và bản thân họ cũng tham gia rất nhiều vào hoạt động buôn bán cocaine. Ngoài ra, không có cuộc thảo luận nào về sự mơ hồ xung quanh việc Chávez được cho là đã kích động xung đột Colombia-Venezuela. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều sự mơ hồ về câu hỏi này. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, mặc dù đã cực kỳ chỉ trích Chávez (có lẽ là chính đáng như vậy), nhưng không thể tìm ra bất kỳ bằng chứng thuyết phục nào cho thấy Chávez đang hỗ trợ quân du kích FARC. Chúng ta cũng nên nhớ rằng chính Chávez là người đã công khai chỉ trích FARC, tuyên bố rằng thời đại “chiến tranh du kích đã là lịch sử”. Ông đã ủng hộ việc quay trở lại các cuộc đàm phán hòa bình giữa FARC và chính phủ Colombia, đồng thời thúc đẩy FARC chấm dứt hoạt động khủng bố bắt cóc dân thường và quan chức chính phủ làm con tin.
Về vấn đề chính trị “độc tài” của Chávez, việc đưa tin của truyền thông Mỹ giống tuyên truyền hơn là thực tế. Báo chí Hoa Kỳ gặp khó khăn khủng khiếp trong việc giải thích làm thế nào mà một nhà độc tài lại có thể được bầu cử một cách dân chủ bốn lần trong mười năm qua – vào các năm 1998, 2000, 2004 và 2006, đặc biệt trong các cuộc tranh cử được các nhà giám sát bầu cử quốc tế chứng nhận là minh bạch và hợp pháp. Tờ Times cũng không thể giải thích kết quả của cuộc trưng cầu dân ý năm 2009, vốn bãi bỏ giới hạn nhiệm kỳ tổng thống, được các nhà quan sát quốc tế chứng nhận là công bằng và dân chủ.
Lời giải thích rõ ràng nhất cho việc tờ Times công kích Chávez là tờ báo này khinh thường nền dân chủ Venezuela. Chávez từ lâu đã nhận được sự ủng hộ dân chủ mạnh mẽ từ đa số người dân Venezuela, đồng thời gây ra sự phẫn nộ của các chính trị gia Mỹ, những người coi Venezuela là mảnh đất màu mỡ nhưng chưa được sử dụng để đầu tư của doanh nghiệp. Hãy xem xét các bằng chứng: 1. Chávez đã nhiều lần được bầu lại với tỷ lệ chênh lệch mà George W. Bush có thể chưa bao giờ mơ đạt được. 2. Một cuộc thăm dò của Gallup International từ năm 2007 khẳng định lại tính hợp pháp dân chủ của nền chính trị Venezuela theo một số cách. 53% người Venezuela nhìn chung cảm thấy rằng đất nước của họ “được cai trị bởi ý chí của người dân” dưới thời Chávez. Ngoài ra, 67% cảm thấy rằng các cuộc bầu cử ở Venezuela được tiến hành một cách “công bằng” chứ không phải “không công bằng”. Hơn nữa, như phân tích của tôi về cuộc thăm dò của Gallup năm 2007 cho thấy, những người Venezuela nghèo và thất nghiệp (người nghèo chiếm đa số trong công chúng) có nhiều khả năng tin rằng đất nước được cai trị bởi ý chí của đa số và rằng các cuộc bầu cử của đất nước diễn ra tự do, dân chủ. , và công bằng. Điều này trái ngược hoàn toàn với những người giàu có và có việc làm ở Venezuela, những người có nhiều khả năng bác bỏ những tuyên bố này hơn.
Người ta sẽ không có ấn tượng từ các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ rằng chính Hoa Kỳ, chứ không phải các quan chức Venezuela, mới là những người bị nghi ngờ ở Venezuela. Một cuộc thăm dò năm 2007 của BBC cho thấy hầu hết người Mỹ Latinh được khảo sát đều có cái nhìn không thiện cảm về Hoa Kỳ và phản đối các hoạt động chính sách đối ngoại của chính quyền cựu Bush. Đa số ở Argentina, Brazil, Chile và Mexico cảm thấy rằng ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới “chủ yếu là tiêu cực”, trong khi có khoảng 65-92% phản đối cách Mỹ xử lý cuộc chiến ở Iraq. Đánh giá của từng nhà lãnh đạo chính trị cho thấy Chávez nhận được sự ủng hộ cao từ người dân Venezuela, trong khi cựu Tổng thống Bush nhận được sự ủng hộ thấp không chỉ trên khắp Venezuela mà còn trên toàn bộ khu vực.
Sự nổi tiếng của Chávez, như các nhà báo Mỹ miễn cưỡng thừa nhận, dựa trên việc ông sẵn sàng đặt nhu cầu của quần chúng nghèo ở Venezuela lên trên nhu cầu của giới thượng lưu kinh doanh. Điều này không có nghĩa rằng ông ấy là một vị thánh hay việc đàn áp chính trị không phải là mối lo ngại nghiêm trọng đối với những người sống trên khắp bán cầu. Không có nhà lãnh đạo chính trị nào xứng đáng được bỏ trống để củng cố quyền lực chính trị. Nhưng điều dường như khiến các nhà lãnh đạo Mỹ trốn tránh là nền dân chủ Venezuela giao nhiệm vụ buộc các nhà lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước người dân Venezuela, thay vì giới tinh hoa Mỹ “khai sáng”.
“Cách mạng Bolivar” của Chávez thực sự rất được người dân Venezuela yêu thích. Ông đang thành công trong việc thúc đẩy rất nhiều chương trình phúc lợi xã hội được chi trả từ doanh thu xuất khẩu dầu mỏ của đất nước. Chávez đang dẫn đầu các nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới, chăm sóc sức khỏe do chính phủ tài trợ, giáo dục đại học phổ cập, tăng quỹ lương hưu nhà nước, phân phối lại đất đai và mở rộng nhà ở công cộng, cùng các chương trình khác. Cuộc cách mạng phúc lợi của Chávez đang cải thiện đáng kể đời sống của người dân. Chi tiêu phúc lợi xã hội tăng 50% trong giai đoạn 1999-2005 (trong 6 năm đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống của Chávez) đi kèm với việc giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, tăng tỷ lệ nhập học, tăng thu nhập khả dụng của cá nhân và giảm nghèo. Từ năm 1997-2005, tỷ lệ nghèo toàn quốc đã giảm từ 56% xuống 38% dân số. Đến năm 2005, ước tính có khoảng 50% người dân Venezuela được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của chính phủ, trong khi con số tương tự cũng được chính phủ trợ cấp lương thực. Nên nhớ rằng Cách mạng Bolivar cũng diễn ra trong điều kiện tăng trưởng kinh tế khá ổn định, dao động từ 6-18% GDP một năm trong giai đoạn 2004-2008. Xu hướng này dựa trên giả định của các phóng viên Mỹ rằng các chính sách xã hội chủ nghĩa là trở ngại lớn cho sự ổn định và thịnh vượng kinh tế.
Không ai ở Mỹ phải ngạc nhiên khi người dân Venezuela ủng hộ Chávez vì các chính sách phúc lợi của ông. Tuy nhiên, sự thật cơ bản này được che giấu trong các bài xã luận của Times coi Chávez là một “nhà độc tài người Mỹ Latinh”, người “thực hiện quyền kiểm soát gần như toàn bộ chính trị và quân sự đối với đất nước mình” thông qua việc bóp méo các cuộc bầu cử và quốc hữu hóa tài nguyên thiên nhiên. Tất nhiên, việc truyền thông xuyên tạc chính trị Mỹ Latinh không có gì mới. The Times và Post luôn nhìn Châu Mỹ Latinh qua con mắt tư bản, tân tự do và việc đưa tin về Venezuela ít khác biệt với khuôn mẫu này.
Anthony DiMaggio giảng dạy Chính trị toàn cầu và Hoa Kỳ tại Đại học bang Illinois. Ông là tác giả của Truyền thông đại chúng, Tuyên truyền đại chúng: Xem xét tin tức Mỹ trong 'Cuộc chiến chống khủng bố (2008) và Khi truyền thông tham chiến (xuất bản vào tháng 2010 năm XNUMX). Anh ấy có thể liên lạc được tại: [email được bảo vệ]
ZNetwork được tài trợ hoàn toàn thông qua sự hào phóng của độc giả.
Đóng góp