Diana Johnstone, Vòng tròn trong bóng tối: Hồi ký của một người theo dõi thế giới. Clarity Press, Inc. 2020.
Cuốn sách của Diana Johnstone mở ra một cách xuất sắc bầu không khí trí thức hiện nay trên thế giới đã làm hư hỏng phần lớn thế giới truyền thông như thế nào. Một vài thập kỷ trước, vẫn có sự cởi mở trong cách các nhà báo đưa tin về các vấn đề thế giới. Tuy nhiên, gần đây khả năng đưa tin độc lập và phê bình đã thu hẹp đáng kể. Các phương tiện truyền thông chính thống ngày càng thân thiết hơn với thế giới của giới tinh hoa quyền lực.
Hoạt động báo chí của Johnstone đến từ một thế giới nơi việc đưa tin thực tế là động lực chính. Cô đã dành phần lớn cuộc đời nghề nghiệp của mình bên ngoài các phương tiện truyền thông chính thống trong khi theo dõi những thói quen ngày càng đáng nghi ngờ của các nhà báo, những người đã trở nên nổi tiếng hơn mức mà công việc của họ có thể cho phép. Johnstone ngay từ đầu đã nhận thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa các cơ quan tình báo phương Tây và các cơ quan truyền thông lớn. Thay vì dựa vào “các nguồn thông tin tình báo”, “các nguồn thông tin” hoặc “các nguồn đáng tin cậy”, cô ấy dựa vào “các nguồn mở và phân tích chu đáo về các sự kiện đã biết. Phương pháp này hóa ra còn chính xác hơn những tiết lộ ma quái.” Johnstone cho biết thêm: “Thay vì phục vụ mục đích giáo dục công chúng, các phương tiện truyền thông chính thống dễ dàng chấp nhận một câu chuyện phù hợp với những định kiến tiêu chuẩn và lợi ích quyền lực”. Cô chỉ ra rằng làm việc cho các phương tiện truyền thông lớn có những lợi ích rõ ràng, đặc biệt là về mặt kinh tế, nhưng nó kéo theo sự mất tự do.
Tính đạo đức giả của các nhà lãnh đạo quyền lực phương Tây được thể hiện trong ý tưởng về “các giá trị phương Tây”. Johnstone xem xét lại hồ sơ lịch sử về việc những “giá trị” này đã được sử dụng như thế nào để che đậy các cuộc tấn công bạo lực chống lại nhân quyền và các quốc gia có chủ quyền vốn bị coi là kẻ thù. Cô chỉ ra rằng trong Chiến tranh Lạnh, “nhân quyền” đã được sàng lọc cẩn thận để đề cập chủ yếu đến các nhóm bất đồng chính kiến ở Liên Xô và Đông Âu.
Là một người Mỹ đã dành phần lớn cuộc đời của mình ở Châu Âu, chủ yếu là ở Pháp, Johnstone đau đớn nhận thức được vai trò to lớn của Hoa Kỳ trong việc cố gắng dùng bạo lực để uốn nắn thế giới theo hình ảnh của chính mình, đồng thời thể hiện sự thiếu hiểu biết hoàn toàn về lịch sử và văn hóa của các quốc gia nạn nhân. .
Châu Âu có những phong trào chỉ trích nỗ lực của đế quốc Mỹ. Johnstone kinh tởm nhìn vào những năm 1970 các “triết gia mới” đã làm việc cật lực như thế nào để chuyển dư luận Pháp sang quan điểm thân Mỹ hơn trong Chiến tranh Lạnh. Các trí thức hàng đầu của Pháp chỉ chứng kiến sự áp bức ở Liên Xô mặc dù điều kiện đã được cải thiện kể từ thời Stalin. Trong thế giới xa lạ này, Michel Foucault là triết gia hàng đầu. Cuộc gặp gỡ của Johnstone với Foucault và người theo dõi nhiệt thành của ông ta là André Glucksmann thật khó chịu.
Johnstone mô tả một cuộc gặp với Glucksmann: “Tôi đã dám gợi ý với Glucksmann rằng có những nhà bất đồng chính kiến khác trên thế giới, đặc biệt là ở Châu Mỹ Latinh và thậm chí ở Hoa Kỳ, và sẽ cân bằng hơn nếu bảo vệ họ. Điều này rõ ràng là không thể thực hiện được.”
Trong công việc và hoạt động chính trị, Johnstone luôn nghi ngờ những đồng nghiệp và bạn bè cánh tả của mình. Cô cho rằng họ quá nhiệt tình với hình ảnh của chính mình và mơ về một cuộc cách mạng mà họ không biết làm cách nào để thực hiện được. Cô đã có kinh nghiệm cá nhân về những nhà hoạt động cánh tả nổi tiếng như Daniel Cohn-Bendit và Joschka Fischer. Cô nhanh chóng nhận ra sự giả tạo của họ.
Johnstone lớn lên trong một gia đình mà sự chính xác của ngôn ngữ là điều cần thiết. Theo kinh nghiệm của cô ấy, điều này “ngụ ý về sự trung thực, một điều gì đó có vẻ cơ bản đến mức tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng mọi người đều nói dối”. Cha của Johnstone thích nhớ lại ai đã nói điều gì đó đáng nhớ. Ý tưởng này thực ra là của Albert Einstein: “Khi vòng tròn kiến thức của chúng ta mở rộng thì chu vi bóng tối xung quanh nó cũng mở rộng”.
Sau này, trong cuộc sống nghề nghiệp của mình, Johnstone thường sống gần gũi không thoải mái với những người thích tuyên bố về “sự thật” dựa trên tính chủ quan không được kiểm soát bởi phân tích thực tế.
Trong số những người bạn nổi tiếng của Johnstone có nhà ngôn ngữ học và nhà bất đồng chính kiến người Mỹ Noam Chomsky. Chomsky không thích một số khía cạnh của bầu không khí trí thức ở Paris vào cuối những năm 1970. Sự thù địch mà ông nhận được ở thủ đô nước Pháp có lẽ đã khiến cuộc sống của những người Mỹ bất đồng chính kiến ở địa phương trở nên khó khăn hơn. Chẳng bao lâu Johnstone không thể xuất bản được bất cứ thứ gì ở Pháp và phải chuyển sang Tây Ban Nha, Ý, Đức hoặc những nơi khác.
Cái bóng của Mỹ bao trùm châu Âu liên tục hiện diện trong tác phẩm báo chí của Johnstone. Hoa Kỳ có một mục tiêu chính ở châu Âu: sự thống trị của Mỹ. Để đạt được mục đích này, người Mỹ đã khôn ngoan hơn châu Âu Xô Viết ở Đông Âu. Các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã hợp tác chặt chẽ với các đồng nghiệp Tây Âu của họ. Ví dụ, ở Ý, CIA đã thiết lập mối liên hệ chặt chẽ với các cơ quan mật vụ của nước này. Johnstone giải thích tại sao những thiện cảm của chủ nghĩa phát xít vẫn tích cực trong cộng đồng tình báo Ý ngay cả sau chiến tranh.
Bởi vì nhiều người tử tế ở các nước châu Âu chống lại sự thống trị của Mỹ, nên Mỹ phải quay sang những người khác xa với bất cứ thứ gì mà người Mỹ tôn vinh là những người theo “các giá trị phương Tây”. Johnstone viết rằng Hoa Kỳ không gặp vấn đề gì khi tiếp xúc với những kẻ tham nhũng, tội phạm và ngu ngốc nhất, “bởi vì đây là những kẻ háo hức nhất để được hưởng sự bảo vệ của một thế lực nước ngoài”.
Có rất ít nhà lãnh đạo châu Âu có khả năng chống lại sức mạnh của Mỹ. Một người là Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme, người bị ám sát một cách bí ẩn ở Stockholm năm 1986. Johnstone bị hấp dẫn bởi vụ giết người của ông vì bà biết rằng Palme đã có đủ can đảm để làm theo những lời kết tội của ông khi chúng đi ngược lại quan điểm thế giới mà Washington cố gắng truyền bá. Châu Âu và những nơi khác.
Một năm sau vụ giết người, Johnstone tới Thụy Điển. Cô mô tả trải nghiệm này như sau: “Khám phá chính của tôi là chính trị. Sau gần nửa thế kỷ tồn tại của chính phủ Dân chủ Xã hội, cảnh sát an ninh Thụy Điển vẫn nằm trong tầm kiểm soát của phe cánh hữu, những người có thái độ thù địch khét tiếng với cố Thủ tướng Olof Palme, khiến họ trở thành nghi phạm chính, nếu không phải là thủ phạm thì là đồng phạm của lực lượng an ninh thân thiện. của nước khác.”
Sau Thế chiến thứ hai, thái độ thân Đức của cơ quan an ninh Thụy Điển đã chuyển sang chủ nghĩa thân Mỹ. Một văn phòng mật vụ đã nghỉ hưu nói với Johnstone: “Những gì CIA nói là lời của Chúa. Họ phụ thuộc vào nó 200%.”
Nhà sử học Thụy Điển Wilhelm Agrell nói với Johnstone rằng ông nghi ngờ rằng các thành phần trong lực lượng an ninh hoặc vũ trang Thụy Điển có liên quan đến vụ sát hại Palme vì họ cho rằng ông là mối đe dọa đối với quốc gia. Trong số những nhóm này có một khao khát lớn lao là quay lưng lại với thế trung lập và gia nhập NATO. Kể từ đó, mặc dù Thụy Điển vẫn nằm ngoài NATO nhưng nước này vẫn nhiệt tình ủng hộ các hoạt động quân sự của Mỹ nhằm chống lại “mối đe dọa từ Nga”.
Cuộc khủng hoảng ở Balkan vào những năm 1990 đã mang đến cho giới truyền thông phương Tây một đối tượng mới của lòng căm thù cuồng loạn: chủ nghĩa dân tộc Serbia. Khi Nam Tư tan rã sau cái chết của Tito, các vấn đề kinh tế phức tạp đang xé nát đất nước này. Tuy nhiên, truyền thông phương Tây lại coi đó đơn giản là sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc.
Johnstone viết: “Mặc dù chỉ là một trong số rất nhiều, nhưng “chủ nghĩa dân tộc Serbia” được so sánh với “sự trỗi dậy của Chủ nghĩa Quốc xã vào những năm 1930 - một sự so sánh không có mối liên hệ nào với thực tế. Nhưng nó đã lọt vào tai công chúng.”
Các lệnh trừng phạt quốc tế được áp đặt lên Serbia để trừng phạt vì nước này được cho là có vai trò lãnh đạo trong cuộc chiến tranh Bosnia. Trên thực tế, như Johnstone đã chỉ ra, chính phủ Milosevic đã mạnh mẽ thúc giục người Serb ở Bosnia tìm kiếm một giải pháp với phe Hồi giáo. Johnstone báo cáo rằng điều mà các phương tiện truyền thông không đưa tin vào thời điểm đó là “có những người ủng hộ hòa giải ở tất cả các nhóm sắc tộc và những cơ sở cho sự thỏa hiệp hòa bình đều tồn tại. Lúc đó mọi chuyện không rõ ràng như sau này rằng các cường quốc NATO không muốn giải quyết hòa bình: thực tế là họ muốn dùng thảm kịch nhân loại ở Nam Tư làm cái cớ để can thiệp.”
Tâm trạng chủ đạo ở phương Tây là người Serbia phải bị trừng phạt: “Vào ngày 4 tháng 1995 (XNUMX), lực lượng Croatia, với sự hậu thuẫn của Mỹ, đã đuổi người Serbia ra khỏi vùng biên giới Krajina – cuộc “thanh lọc sắc tộc” lớn nhất trong các cuộc chiến tranh Nam Tư . Không ai ở phương Tây quan tâm đến chuyện gì đã xảy ra với người Serbia”.
Johnstone thấy rằng các sự kiện ở Balkan được báo cáo hết sức thiếu trung thực. Điều này một lần nữa được thể hiện rõ ràng khi NATO bắt đầu ném bom Serbia vào tháng 1999 năm XNUMX, một chiến dịch dựa trên những báo cáo xuyên tạc về các sự kiện ở Kosovo. Như Johnstone viết, việc giả vờ “các giá trị phương Tây” đã được sử dụng một cách cực đoan: “Đặc điểm của 'các giá trị phương Tây' đương đại là không quan tâm gì đến 'các giá trị phương Tây' như được thực hiện ở các quốc gia khác. Điều này có thể là do các nhà lãnh đạo, sau khi áp dụng 'các giá trị phương Tây', có xu hướng tự tin và không muốn bị chỉ huy.”
Thậm chí, nhiều ngôi sao sáng giá “cánh tả” còn giúp bắt đầu một cuộc tấn công cực kỳ bạo lực chống lại Serbia, trong số đó có Joschka Fischer và Dany Cohn-Bendit. Họ đã tạo ra vòng xoáy “nhân đạo” cho một cuộc chiến giết chết hàng nghìn thường dân và gây thiệt hại nặng nề cho cơ sở hạ tầng của Serbia. Sự can thiệp tội phạm của NATO vào vùng Balkan đã được phần lớn phương Tây chấp thuận một cách không phê phán. Điều này cho thấy phương tiện truyền thông phương Tây đã giúp tạo ra ảo tưởng về “những can thiệp nhân đạo” như thế nào
Những nỗ lực của Johnstone và một số nhà báo khác nhằm ghi lại sự việc một cách thẳng thắn đã không được phép. Một thế giới quan méo mó vẫn còn tồn tại. Một số nhà văn này đã thấy ngay rằng Hoa Kỳ sẽ sử dụng điều này để tàn phá khắp Trung Đông trong nhiều năm tới.
Hãy để tôi trích dẫn chi tiết Johnstone từ những trang cuối cùng trong cuốn sách của cô ấy: “Ngày nay, bất kỳ sự lãnh đạo nào cũng đều nằm ở hậu trường, thúc đẩy sự hỗn loạn và mất trật tự. Chế độ chuyên chế kỳ lạ ngày nay là một cái gì đó mới mẻ, không có tên gọi riêng. Trong “xã hội thông tin”, nó không có học thuyết rõ ràng mà là một tập hợp niềm tin linh hoạt và thường mâu thuẫn được lưu hành trong ngành công nghiệp thông tin. Đây là một chế độ chuyên chế bằng thông điệp truyền thông, và điều quan trọng là ví dụ quan trọng nhất về sự đàn áp của chính phủ không liên quan đến một số hành động nổi loạn bạo lực mà là tiết lộ một cách hòa bình những sự thật mà công chúng lẽ ra không được biết. Bị các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ coi là Kẻ thù số một, Julian Assange không chế tạo bom để tấn công Washington mà chỉ đơn giản truyền tải những thông tin quan trọng đến công chúng.”
Cuốn sách của Johnstone là lời cảnh tỉnh đối với công chúng đọc sách, đặc biệt là đối với những nhà báo trẻ, những người sẵn sàng đương đầu với thế giới truyền thông đầy áp bức khiến con người luôn thờ ơ với thực tế thế giới.
ZNetwork được tài trợ hoàn toàn thông qua sự hào phóng của độc giả.
Đóng góp